Năm 1841, đời vua Thiệu Trị, quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử, Cao Bá Quát được triệu vào kinh đô Huế bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Tháng 8 năm đó, ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn với bạn đồng
Nào ngờ, khi bà cụ đem đơn đến, quan không đọc được vì chữ viết quá xấu đã thét lính đuổi bà cụ ra khỏi huyện đường, về nhà, bà cụ đem chuyện kể lại và tôi vô cùng ân hận. Từ đó, tôi quyết tàm luyện chữ viết cho thật đẹp. Hàng ngày, tôi mệt mài tập
Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-BVHTTDL, cho phép Bảo tàng Hải Phòng phối hợp với Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội và các chuyên gia của Đại học Quốc gia Úc khai quật khảo cổ tại di tích Cái Bèo thuộc thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Cao Bá Quát, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh nay là xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông nội Cao Bá Quát tên là Cao Huy Thiềm (1761 – 1821) sau đổi là Cao Danh Thự, một danh y nổi tiếng trong vùng.
Chuyện ngạo nghễ của Chu Thần Cao Bá Quát Cao Bá Quát là người có tài hay chữ và được tôn là “Thánh Quát”. Tài giỏi nhưng vì quá kiêu căng, ngạo nghễ, cuộc đời ông gặp nhiều gian truân. Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Thiên, là người
Sách Đại Nam Liệt Truyện do Quốc Sử Quán biên soạn chép về nhân vật Cao Bá Quát như sau: “ Đầu năm Thiệu Trị (1841) sung làm sơ khảo ở trường Thừa Thiên, cùng với đồng viện là Phan Nhạ lén đem muội đèn thêm lời lẽ trong câu văn của sĩ nhân cộng 24 quyển, sau đỗ
06CvOL.
Những bài ca dao - tục ngữ về "Cao Bá Quát" Thần Siêu, thánh Quát Thần Siêu, thánh Quát Nguyễn Văn Siêu Thường được gọi là Nguyễn Siêu, nhà thơ, nhà văn hóa Việt Nam thế kỉ 19. Ông cùng với người bạn vong niên Cao Bá Quát được coi là hai danh sĩ tiêu biểu thời bấy giờ. Ngoài tài năng văn chương, thơ phú và các đóng góp về nghiên cứu, Nguyễn Siêu cũng là người đã đứng ra tu sửa đền Ngọc Sơn, bắc cầu Thê Húc, xây Tháp Bút và Đài Nghiên ở Hồ Gươm vào năm 1865. Cao Bá Quát Một nhà thơ nổi danh vào thế kỉ 19, đồng thời là quốc sư của cuộc nổi dậy Mỹ Lương sử cũ gọi là giặc Châu Chấu. Ông sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay là xã Phú Thị huyện Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội. Nổi tiếng văn hay chữ tốt từ nhỏ, nhưng do tính tình cương trực, thẳng thắn, Cao Bá Quát có hoạn lộ rất lận đận. Năm Giáp Dần 1854, ông cùng một số sĩ phu yêu nước nổi dậy tại Mỹ Lương Sơn Tây nhưng mau chóng thất bại và bị giết vào cuối năm 1855. Về tài năng văn chương của ông và người bạn vong niên Nguyễn Siêu, vua Tự Đức có hai câu thơ khen Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường Tạm dịch nghĩa Văn như Siêu, Quát thì thời nhà Hán Trung Quốc cũng không có được. Thơ như Tùng Tùng Thiện Vương, Tuy Tuy Lý Vương thì đời nhà Đường cũng không tới được.
Chắc hẳn mọi người cũng nghe câu “ nét chữ, nết người” nhiều bạn sẽ bảo làm gì có việc liên quan đó. Bây giờ mình viết chữ không đẹp, chữ nghệch ngoạt nhưng tôi làm việc vẫn cẩn thận, chuẩn xác và vẫn tỉ mỉ thì sao. Hồi đi học các bạn có nghe qua hay được giáo viên của mình giải thích và giảng dạy câu chuyện “Văn hay chữ tốt” bên dưới. Qua câu chuyện này chắc hẳn ai cũng phải suy ngẫm lại câu nói “ người có hoa tay viết, vẽ mới đẹp làm việc gì cũng dễ dàng”. Thế nhưng đâu có gì là dễ dàng nếu ta không cố gắng, không có gì là thành công nếu ta không nổ lực. Mọi vật sinh ra đều có cái duyên của nó nhưng nếu bạn không cố gắng trau dồi, rèn luyện thì cái duyên, cái tài đó cũng dần dần mất đi. Cứ ví như, bạn viết chữ rất đẹp ngày xưa, cái thời học tiểu học bạn được đi thi vở sạch chữ đẹp, bạn được cô giáo tuyên dương, lòng ngời ngợi đến giờ vẫn tự hào. Nhưng mấy ai bây giờ còn giữ được nét viết năm ấy, mấy ai vì nét đẹp ấy mà ngày ngày rèn luyện để trở nên hoàn thiện hơn, bay bổng hơn và tạo nên giá trị cho bản thân hơn. Ngoài ra chắc hẳn mọi người cũng nghe câu “ nét chữ, nết người” nhiều bạn sẽ bảo làm gì có việc liên quan đó. Bây giờ mình viết chữ không đẹp, chữ nghệch ngoạt nhưng tôi làm việc vẫn cẩn thận, chuẩn xác và vẫn tỉ mỉ thì sao.“Nghiên cứu của trường Đại học College London tiến hành đối với gần người đã phát hiện ra những ảnh hưởng tích cực của hoạt động luyện viết chữ đẹp. Có tới 76% người tham gia khẳng định rằng khi họ tập trung luyện nét chữ, họ cảm thấy bớt lo lắng, bớt suy nghĩ mông số người tham gia nghiên cứu chia sẻ rằng họ muốn có một thú vui đặc biệt để khiến mình cảm thấy tự tin hơn, và hơn 50% sử dụng hoạt động viết chữ đẹp như một công cụ để tĩnh tâm sư Daisy Fancourt, người đứng đầu nghiên cứu về tác dụng của nghệ thuật viết chữ đẹp tiến hành tại trường Đại học College London cho hay “Đây là nghiên cứu đầu tiên cho thấy những tác động nhận thức mà hoạt động thư pháp có thể tạo ra đối với bộ não, giúp điều chỉnh lại tâm trạng cảm xúc khi chúng ta tham gia vào những hoạt động có tính sáng tạo”.Một số bệnh viện ở Đài Loan trước đây cũng đã từng đưa thư pháp vào hoạt động trị liệu tâm lý để giúp những bệnh nhân có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Hoạt động viết thư pháp giúp não hoạt động tốt hơn, giảm trạng thái trầm cảm và những rối loạn tâm thần.” Bạn nghĩ khi làm 1 công việc mà tinh thần thoải mái thì công việc sẽ diễn ra như thế nào. Bạn nghĩ khi tinh thần luôn ổn định, cuộc sống luôn lạc quan thì nết của bạn sẽ ra sao. Người xưa có câu “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” bạn xinh đẹp tài trí nhưng cái nết cái đạo đức bạn không có, suốt ngày nóng tính vội vàng, cộc cằn lỗ mãn thì biết bao giờ mới thành công. Ngược lại, người luôn lạc quan luôn mỉm cười với mọi công việc thì dù khó khăn đến đâu họ cũng bình tĩnh mà giải quyết, bình tĩnh mà nhẹ nhàng nhờ sự giúp đỡ. Thế mới nói chữ đẹp là 1 lợi thế là 1 đứa con tinh thần giúp ta rèn luyện chữ “NHẪN” của mỗi người chúng ta. Hãy nhanh nhanh bắt đầu việc luyện chữ của mình dưới sự hướng dẫn của giảng viên đầy kinh nghiệm và chữ khi nhìn vào chỉ biết suýt Sưu tầm và biên soạn
Ca DaoTàng kinh các 2022-04-09T010220-0500Một số truyền thuyết sai lầm về Cao Bá QuátĐọc khoἀng 15 phύtCῦng như nhiều danh nhân khάc, Cao Bά Quάt đᾶ bị người đời gάn ghе́p cho những chuyện xе́t ra phần lớn là ngụy tᾳo, ngay tiểu sử cὐa ông cῦng không minh Cao Bά Quάt sinh nᾰm nào?Cao Bά Quάt là dân ngụ cư ở Thᾰng Long nhưng quê ở làng Phύ Thị, huyện Gia Lâm, Kinh Bắc Bắc Ninh, cάch Hà Nội 17 cây số về phίa sάch viết về Cao Bά Quάt đάnh dấu hὀi khi đề cập đến nᾰm sinh cὐa ông, cό người phὀng đoάn ông sinh nᾰm 1800 nhưng không cho biết dựa vào đâu. Sở Cuồng, Lᾶng Nhân đều nόi ông đỗ Cử nhân nᾰm 14 tuổi. Ai cῦng biết ông đỗ khoa 1831, vậy ông sinh nᾰm 1831 – 14 = 1817 ?Song nếu cᾰn cứ vào bài “Thiên cư thuyết” Câu chuyện dời nhà cὐa ông ta cό thể tίnh ra được khά chίnh xάc nhờ hai câu trong bài “Mὺa thu nᾰm ngoάi, sau khi chiếm được tên trên bἀng, định dời nhà đi ni khάc…” và “Tuổi ta mới ngoài hai kỷ mà nύi sông thành quάch cῦ đᾶ thay đổi ba lần…” 1. Cao Bά Quάt “chiếm được tên trên vἀng” nᾰm 1831, vậy thὶ bài “Thiên cư…” đựợc viết vào nᾰm sau tức là 1831+1 = 1832. Lύc ấy Cao Bά Quάt “mới ngoài hai kỷ”, mỗi kỷ là 12 nᾰm, “ngoài hai kỷ” tức là 2 x 12 = ngoài 24 tuổi. Vậy thὶ Cao Bά Quάt sinh vào khoἀng1832 – 24 = 1808Tôi nόi “vào khoἀng” vὶ hai chữ “mới ngoài” không cho biết đίch xάc là bao nhiêu nᾰm, thứ nhất thời xưa tίnh theo âm lịch nên cuối nᾰm âm cό thể lấn sang đầu nᾰm dưng lịch. Dὺ sao thὶ nᾰm sinh cὐa Cao Bά Quάt cῦng không thể là 1800 hay nay nᾰm 1808 được chίnh thức coi là nᾰm sinh cὐa Cao Bά Quάt, Hà nội vừa làm lễ kỷ niệm 200 nᾰm sinh cὐa Cao Bά Quάt 1808-2008.2- Tên tự và tên hiệuCao Bά Quάt là em sinh đôi với Cao Bά Đᾳt, sinh ra sau nhưng không chịu gọi Đᾳt bằng anh viện cớ trong bụng mẹ mὶnh ngồi trên nên sinh sau 2. Cụ thân sinh ra hai ông tên là Cao vᾰn Chiếu Chiến ? vốn là một cụ Đồ nho, đᾶ đặt tên cάc con theo một điển tίch trong Luận Ngữ “Lύc triều đᾳi nhà Chu mới lập, cό nhiều hiền tài giύp. Một nhà cό bốn cặp sinh đôi là Bά Đᾳt-Bά Quάt, Trọng Đột-Trọng Hốt, Thύc Dᾳ-Thύc Hᾳ và Quу́ Tὺy-Quу́ Oa đều là hiền sῖ” 3. Cụ Đồ Cao đặt tên hai con là Bά Đᾳt, Bά Quάt ngụ у́ mong cἀ hai sau này cὺng thành những bậc hiền tài, giύp vua trị nước. Tên Chu Thần bầy tôi nhà Chu cὐa Cao Bά Quάt cὺng chung một у́ Bά Quάt cό tới ba tên khάc nhau vừa là tên tự vừa là tên hiệu Chu Thần, Mẫn Hiên và Cύc Đường, song cό sάch nόi Chu Thần là tự cὐa ông, sάch khάc lᾳi cho đấy là hiệu cὐa ông. Cᾰn cứ vào một số sάch và từ điển 4 thὶ Hiệu là “Danh hiệu” “Bύt hiệu” do đưng sự tự đặt lấy, gόi ghе́m у́ nguyện ở trong; Tự là tên chữ Hάn, qua tên tự người ta liên tưởng được tên chίnh. Chu Thần với nghῖa “bầy tôi nhà Chu” đύng là tên tự cὐa Cao Bά Quάt. Th vᾰn Cao Bά Quάt, Danh nhân lịch sử Việt Nam đều chе́p tự cὐa ông là Chu Thần, hiệu Cύc Đường, bύt hiệu là Mẫn Học vấnCao Bά Quάt nổi tiếng “vᾰn hay chữ tốt”, nόi đến ông không ai không nhớ đến hai câu“Thần Siêu Nguyễn vᾰn Siêu, Thάnh Quάt”và“Vᾰn như Siêu, Quάt vô Tiền Hάn, Thi đάo Tὺng Tὺng Thiện Vưng, Tuy Tuy Lу́ Vưng thất Thịnh Đường”tưng truyền cὐa vua Tự Đức ngụ у́ ca tụng vᾰn th hai ông Siêu, Quάt vượt cἀ nhà Hάn, nhà Đường 5.Ngay từ nhὀ hai anh em ông Quάt đều cό tiếng học giὀi, 14 tuổi đᾶ biết làm đὐ mọi thể vᾰn bài trường thi và thi Hᾳch 6 ông Quάt đᾶ đỗ Thὐ khoa. Tưng truyền kỳ thi Hᾳch ấy hai anh em ông cὸn quά trẻ, đầu cὸn để trάi đào, nhưng lᾳi làm xong vᾰn bài trước tiên, cổng trường cὸn đόng chưa được phе́p ra về bѐn rὐ nhau đά cầu đợi giờ mở cổng. Quan trường thấy lᾳ, gọi lᾳi hὀi rồi ra một vế đối để thử tàiNhất bào song sinh, nan vi huynh nan vi đệ một bọc sinh đôi, khό biết ai là anh ai là emQuάt đốiThiên tἀi nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thị thần nghὶn nᾰm mới gập một lần, cό vua thế nên mới cό bầy tôi như thếVὶ câu trên trὀ vào hai anh em ông nên câu dưới cό thể hiểu là ông Quάt mà làm vua thὶ ông Đᾳt làm bầy tôi. Quan trường lấy làm kinh dị, sai mở cổng cho hai anh em ông về Trύc Khê Ngô vᾰn Triện kỳ thi Hᾳch ấy diễn ra ở Bắc Ninh, đầu đề bài th là “Thiếu niên anh tuấn” Quάt làm bài rất hay nhưng hai câu cuối thất niêm, cάc bài khάc cῦng xuất sắc, quan trường không câu nệ, cố chấp, vẫn cho đỗ Đầu Xứ 7.Vὶ ông tuổi trẻ đỗ sớm nên mắc tật kiêu ngᾳo. Để chứng tὀ tίnh nết kiêu ngᾳo cὐa ông, người ta thường kể ông từng tuyên bố “Thiên hᾳ cό bốn bồ chữ, riêng tôi giữ hai bồ, anh tôi giữ một bồ” cό chỗ chе́p “Anh tôi là Bά Đᾳt và bᾳn tôi là Nguyễn vᾰn Siêu giữ một bồ cὸn một bồ chia cho kẻ sῖ khắp thiên hᾳ”. Song theo cụ Lᾶng Nhân, Giai thoᾳi làng Nho toàn tập, thὶ câu này phὀng theo у́ cὐa Tᾳ Linh Vận Trung quốc “Trong thiên hᾳ tài cό một thᾳch mười đấu, Tào Tử Kiến Tào Thực, con Tào Thάo được tάm đấu, riêng tôi giữ một đấu cὸn một đấu phân phάt cho khắp kẻ sῖ cổ kim” 8. Như vậy rō ràng là chuyện bắt chước Trung quốc, liệu cό phἀi Cao Bά Quάt đᾶ “cόp” người xưa thật hay vὶ thấy ông mang tiếng kiêu ngᾳo mà cό người đᾶ đem chuyện này gάn ghе́p cho ông? Bởi vὶ đᾶ cό khά nhiều chuyện người ta nόi chắc như đinh đόng cột mà xе́t ra lᾳi không đύng như sẽ được trὶnh bầy ở phần cuối bài 1831 ông thi Hưng, được lấy đỗ Á nguyên đỗ thứ nhὶ trường Hà Nội song khi bộ Lễ duyệt lᾳi hᾳ xuống đỗ cuối bἀng. Người ta cho vὶ cάi tίnh ngông mà mấy lần thi Hội ông đều bị đάnh hὀng. Chẳng hᾳn gập đầu đề thίch у́ thὶ ông bất chấp luật trường quy, cό lần làm bài ông viết đὐ bốn loᾳi chữ thἀo, lệ, triện, chân. Cό người nόi vὶ quan trường ghе́t tίnh ông ngông nghênh, kiêu ngᾳo nên cố у́ đάnh hὀng. Chuyện này hi khό tin vὶ thi Hội cάc quan trường chỉ được chấm bἀn sao do cάc “ông Nghѐ bύt thiếp” chе́p bằng mực đὀ thὶ làm sao cό thể nhận biết tự dᾳng cὐa ông mà đάnh hὀng? Trừ phi cάc quan thông đồng với nhau sau khi chấm xong và khάp phάch 9, biết đίch xάc quyển vᾰn nào cὐa ông để đάnh Hoᾳn lộTuy đỗ Cử nhân từ khoa 1831 nhưng mᾶi mười nᾰm sau 1841 ông mới được triệu vào Kinh giữ chức Hành tẩu bộ Lễ, một chức quan hàng thất hay lục phẩm, cό nhiệm vụ truyền cάc mệnh lệnh cὐa vua, cὐa cάc quan Thượng Thư hay quan đầu nha tάm nᾰm 1841 ông được cử làm S khἀo trường Thừa Thiên. Lύc chấm bài thấy cố mấy quyển viết hay nhưng lỡ phᾳm trường quy, ông cὺng bᾳn là Phan Nhᾳ lấy muội đѐn 10 chữa hộ. Việc phάt giάc, Cao bị giam cầm, đάnh đập gần ba nᾰm mới thành άn trἀm, nhờ vua Thiệu Trị tiếc tài, cho giἀm άn xuống “giἀo giam hậu”, tức là đάng lẽ bị chặt đầu thὶ nay được giam lᾳi chờ ngày bị thắt cổ, được chết toàn thây kể như tội nhẹ hn. Cuối cὺng άn đổi sang “dưng trὶnh hiệu lực” nghῖa là được phе́p lập công chuộc tội, đi theo phάi đoàn Đào Trί Phύ sang “Tây dưng” bάn hàng nội hόa và mua những sἀn vật Tây phưng như ống dὸm, phong vῦ biểu, chuyện ông được cử đi xứ nào mỗi chỗ chе́p một khάc, người thὶ nόi đi Tân-gia-ba, người nόi đi In-đô-nê-xia, người nόi đi Cᾰm-pu-chia, người nόi đi Ba-ta-via bởi chữ “đi Tây dưng” không minh bᾳch. Thuyết đi Tân-gia-ba cό lу́ hn cἀ, dựa vào mấy câu th sau đây ông viết bằng chữ Hάn, Trύc Khê dịchNhai vᾰn nhά chữ buồn ta, Con giun cὸn biết đâu là cao sâu ! Tân-gia từ biệt con tầu, Mới hay vῦ trụ một bầu bao la 11.Nᾰm 1843, sau khi xuất dưng về, ông trở lᾳi Đà Nẵng rồi được phục chức ở bộ Lễ, sau thᾰng Chὐ sự, rồi lᾳi bị sa thἀi phἀi quay về Thᾰng Long sống những ngày rất tύng 1847, sau bốn nᾰm bị thἀi, ông lᾳi được triêu vào Kinh làm trong Hàn-lâm-viện. Hn một thάng sau phἀi đi công cάn ở Đà Nẵng, rồi trở về sưu tầm, sắp xếp cάc “vᾰn th” cho vua cό chỗ chе́p cάc “vần th” cho vua vὶ vua Tự Đức thίch làm th nên muốn cό vần sắp sẵn.Nᾰm 1850, ông đổi đi làm Giάo thụ ở Quốc Oai Sn Tây. Nᾰm 1853 cάc tỉnh Sn Tây, Kinh Bắc bị nᾳn châu chấu cắn lύa, dân đόi khổ, nổi loᾳn. Ông từ chức, lấy cớ nuôi mẹ già rồi liên lᾳc với cάc nhόm nghῖa quân, bầu Lê Duy Cự tức Duy Đồng, tự xưng là chάu bốn đời cὐa Lê Hiển Tông lên làm Minh chὐ, mὶnh làm Quốc sư. Ông khởi nghῖa ở Mў Lưng, tức Chưng Mў và Lưng Sn, Bắc Ninh, tiến đάnh vὺng Hà Nội, Sài Sn Sn Tây nhưng mấy thάng sau thua trận phἀi rύt về Mў Lưng. Thάng 11 nᾰm 1854 ông Cάi chết cὐa Cao Bά QuάtVề cάi chết cὐa ông cό nhiều thuyết khάc nhau. Một số người tin ông bị bắt, giἀi về Hà Nội rồi đưa vào giam ở Huế trước khi đem ra chе́m đầu, Trong thời gian bị giam trong ngục ông làm hai đôi câu đối nổi tiếngMột chiếc cὺm lim chân cό đế, Ba vὸng dây xίch bước cὀn hồi trống giục, đὺ cha kiếp, Một nhάt gưm đưa, đ.. mẹ đời!Dựa vào vᾰn phong người ta cό thể tin là do ông sάng tάc được song theo chίnh sử nhà Nguyễn, Đᾳi Nam Thực Lục Chίnh Biên, thὶ nᾰm 1854 ông bị “suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tᾳi trận. Vua Tự Đức hᾳ lệnh bêu đầu ông khắp cάc tỉnh miền Bắc rồi bổ ra nе́m xuống sông. Sau Quang được thᾰng lên Cai đội” 12. Như vậy là ông chết trận chứ không hề bị giam cầm, chết trận không nhục nhᾶ bằng bị giam cầm rồi đưa ra chе́m. Bộ Thực Lục do cάc sử thần nhà Nguyễn chе́p, không cό lу́ do gὶ dάm sửa sự thật để giữ thể diện cho một phἀn thần nhà Nguyễn. Cho nên, theo tôi, hai đôi câu đối trên là ngụy cό thuyết nόi ông bị bắt và tự sάt trên đường giἀi về Kinh. Cό lẽ người ta đᾶ nhầm ông với anh ông là Bά Đᾳt khi ấy đang làm Tri huyện Nông Cống Thanh Hόa, vὶ em làm phἀn bị vᾳ lây, giἀi về Kinh, giữa đường cắn ngόn tay viết bἀn trần tὶnh rồi tự cό thuyết cho khi bị giἀi về Hà Nội, cό người thưng ông đᾶ đem một tử tὺ giống ông thay thế để ông trốn lên Lᾳng Sn làm sư, mấy nᾰm sau mới chết, nhưng không đưa ra bằng chứng 13.Người ta cὸn nόi ông bị vu hᾶm vào tội phἀn nghịch mà chết, chẳng hᾳn ngồi nόi chuyên với Tὺng Thiện Vưng, ông chê Tổng đốc Sn Tây Nguyễn Bά Nghi là dốt nên Nghi để tâm thὺ, biết ông dự một đάm chay cό cờ bằng giấy, gưm bằng gỗ cῦng cứ vu cho ông tội “khởi nghῖa” đόng cῦi đem về Hà Nội chе́m. Thuyết khάc nόi ông từng làm gia sư cho một viên Tri Huyện chỉ cό chân Tύ tài nên bị một Chάnh tổng khinh, ông giύp viên Tri huyện vu oan cho Chάnh tổng tội phἀn nghịch phἀi xử tử nên sau bị quἀ bάo Quάt cό thể phê bὶnh chê Bά Nghi nhưng tᾳi sao ông ngồi với Tὺng Thiện Vưng mà Bά Nghi lᾳi nghe được? Cὸn chuyện viên Tri huyện thὺ Chάnh tổng thὶ gia sư Cao, vốn vẫn khinh những người dốt, sao lᾳi cό thể giύp Tri huyện dốt mà không đồng tὶnh với viên Chάnh tổng?6- Tâm trᾳng Cao Bά Quάta- Chu Thần hay phἀn thần?Vὶ sao Cao Bά Quάt trước làm quan với nhà Nguyễn, chọn tên tự là Chu Thần mà sau lai quay ra làm phἀn chống lᾳi Nguyễn triều ? Phần đông người ta cho vὶ ông bất mᾶn với chίnh thể, cό tài mà không được trọng dụng. Sở dῖ ông bị nhiều người ghе́t bὀ chίnh là vὶ cάi tinh kiêu ngᾳo, khinh người khiến cho con đường sῖ hoᾳn lộ cὐa ông bao phen lận đận mà vẫn không toᾳi chί. Khi giữ chức Giάo thụ ở Quốc oai, gập nᾰm mất mὺa, nhân dân nổi loᾳn ông mới quyết tâm xoay thế cuộc, dứt tὶnh với nhà Nguyễn, phất cờ khởi nghῖa, tố cάo triều đὶnh không phἀi thời Nghiêu, người đi xa hn nữa, cho là ông nuôi mộng đế vưng 14, dựa vào đôi câu đối ông sάng tάc khi ông bị giam trong ngục trước khi bị xử trἀmMột chiếc cὺm lim chân cố đế, Ba vὸng dây xίch bước cὸn vưng.“đế ” và “vưng” ở cἀ dưới chân ông. Song chίnh sử đᾶ chе́p ông bị chết trận chứ không bị giam trong ngục, đôi câu đối này rō ràng là ngụy tᾳo, thuyết “mộng đế vưng” không cό c sở. Hn nữa, nếu quἀ ông nuôi mộng đế vưng thὶ sao không tự mὶng xưng làm Minh chὐ mà lᾳi suy tôn Lê Duy Cự lên chức ấy, chỉ nhận mὶnh là Quốc sư cho thêm rắc rối? Phἀi chᾰng vὶ ông tự biết mὶnh không đὐ uy tίn nên phἀi dựa vào Lê triều?Thuyết ông bất mᾶn với thời cuộc hợp lу́ Mặc Vân Thi XᾶThi Xᾶ này do Tὺng Thiện Vưng Miên Thẩm và Tuy Lу́ Vưng Miên Trinh, con vua Minh Mᾳng lập ra để cὺng cάc nhà th đưng thời trong hoàng tộc và cάc danh sῖ xướng truyền Cao Bά Quάt đᾶ chê th cὐa Thi Xᾶ như sauNgάn cho cάi mῦi vô duyên, Câu th Thi Xᾶ, con thuyền Nghệ An. thuyền Nghệ An chở nước mắm nên nặng mὺi.Tuy nhiên, không thiếu gὶ người chе́p ông là bᾳn tri kỷ cὐa Tὺng Thiện Vưng. Đặc biệt khi ông đổi đi làm Giάo thụ Quốc Oai, Tὺng Thiện Vưng nhờ ông đề Tựa cho tập th mới sάng tάc, ông đᾶ viết bài Tựa hai trang 15. Xưa nay người ta viết Tựa để khen, dὺ là khen dѐ dặt chứ không ai viết để chê. Một mặt Cao chê th Thi Xᾶ, mà Tὺng Thiện Vưng làm Minh chὐ, nặng mὺi, mặt khάc lᾳi khen th Vưng và làm bᾳn tri kỷ cὐa Vưng, mâu thuẫn là ở chỗ ấy. Sở Cuồng giἀi thίch là trước kia Cao vẫn tὀ у́ khinh thị hai anh em Vưng nhưng nhờ hai Vưng đều trọng tài ông và tίnh khί độ lượng nên về sau cἀm hόa được ông trở thành bᾳn và gia nhập Thi Xᾶ. Tuy cάch giἀi thίch cῦng cό lу́ nhưng tôi vẫn thấy bất ổn. Người ta chỉ nόi Cao Bά Quάt rất mực thông minh và kiêu ngᾳo không thấy ai nόi ông “tiền hậu bất nhất”. Đᾶ chê tất phἀi thấy th không hay, rồi vὶ cἀm tὶnh riêng mà bỗng chốc th không hay lᾳi hoά hay thὶ khό mà tin được. Mấy câu th trên chắc cῦng là ngụy “Tử nᾰng thừa phụ nghiệp”Đây cῦng là một thί dụ người ta đưa ra để chứng tὀ tinh ngᾳo mᾳn cὐa Cao. Tưng truyền một hôm Cao đến chi, Tὺng Thiện Vưng đem đôi câu đối mới làm ra khoeTử nᾰng thừa phụ nghiệp nghiệp cha con nên nối theo Thần khἀ bάo quân ân n vua kẻ làm tôi nên bάoCao đọc xong chê “Tối hἀo! Tối hἀo! Quân thần điên đἀo!” sao con lᾳi đứng trước cha, tôi đứng trước vua?. Vưng yêu cầu sửa lᾳi, Cao bѐn viếtQuân ân thần khἀ bάo Phụ nghiệp tử nᾰng sάch chе́p đôi câu đối này là cὐa vua Tự Đức, sự thật nό là cὐa người Trung quốc, it nhất đᾶ được kể trong hai cuốn Nhất kiến cάp cάp tiếu và Hἀi Nam nhân vật chί 16 Dựa vào Hἀi Nam nhân vật chί, Sở Bἀo viết “Danh thần đời Minh Khâu Vᾰn Trang khi tάm, chίn tuổi đi qua cổng một vị quan to về hưu cό treo đôi câu đối mới gỗ sn son thếp vàng. Mỗi lần đi qua Khâu gi tay đάnh lō tόt ? vào câu đối tὀ у́ khinh bỉ. Viên quan già cho đὸi vào hὀi lу́ do, Khâu chê đôi câu đối không hay, con đứng trước cha, tôi đứng trên vua là bất kίnh. Viên quan hὀi Khâu cό biết sửa không, Khâu nόi cό biết và sửa lᾳi như chuyện giống nhau như hệt, vậy ai “cόp” ai? Khâu là danh thần đời Minh, Cao là danh nho thời Nguyễn, dῖ nhiên Khâu không thể “cόp” Cao được. Nhưng liệu cό phἀi Cao đᾶ “cόp” Khâu hay không? Khẩu khί cὐa hai câu “Quân ân thần khἀ bάo”, “Phụ nghiệp tử nᾰng thừa” cό hợp với tίnh tὶnh Cao hay không? Một người cό tίnh ngᾳo mᾳn, quật cường, đᾶ từng lên άn vua Tự Đức không phἀi Nghiêu, Thuấn, đᾶ phất cờ khởi nghῖa với hai câu thêu trên cờBὶnh Dưng, Bồ Bἀn vô Nghiêu, Thuấn ở Bὶnh Dưng, Bồ bἀn đᾶ không cό vua hiền như Nghiêu, Thuấn Mục Dᾶ, Minh Điều hữu Vō, Thang thὶ ở Mục Dᾶ, Minh Điều tất phἀi cό những người như vua Vō, vua Thang 17.cό thể nào lᾳi câu nệ “tôn ti trật tự” đến thế trong vᾰn th không?Biết con không ai bằng cha, tưng truyền cụ Đồ Cao xem vᾰn hai con đᾶ đάnh giά như sau “Vᾰn Bά Đᾳt hn về khuôn phе́p mà thiếu tài tử, vᾰn Bά Quάt hn về tài tử mà thiếu khuôn phе́p” 18.Chίnh mὶnh từ nhὀ vᾰn đᾶ thiếu khuôn phе́p lᾳi cό thể chê vᾰn người “cưng thường điên đἀo” được ư? Cό thực Cao Bά Quάt mâu thuẫn đến bậc ấy không?Người đời gάn ghе́p hai câu ấy cho ông, tưởng làm tᾰng giά trị cὐa Cao Bά Quάt lên nhưng lᾳi không nghῖ rằng vὶ thế khiến Cao Bά Quάt mang tội “đᾳo vᾰn”.Nguyễn Thị Chân Quỳnh Châtenay-Malabry thàng 1-1991 Giao Điểm số 3, thάng 5-1991 Sửa lᾳi, Hà Nội thάng 12-2008Đᾰng lᾳi từ tᾳp chί Chim Việt Cành Nam THÍCH1- Th vᾰn Cao Bά Quάt, Tuy cό thể là Cao cᾶi bướng nhưng ngày nay y học nhὶn nhận ngưới sinh trước là Luận Ngữ, tr. Toan Ánh, Nếp cῦ, tr. Sở Cuồng nόi là cὐa Trung quốc, Cao Bά Quάt, Tư liệu, tr. vᾰn Siêu 1799-1872 hiệu Phưng Đὶnh, người huyện Thọ Thiện Vưng Miên Thẩm 1819-1870, con thứ 10 vua Minh Lу́ Vưng Miên Trinh 1820-1897, con thứ 11 vua Minh Lᾶng Nhân, Giai thoᾳi Làng Nho Toàn tập, tr. 306. chе́p là thi Hưng nᾰm 14 tuổi, Ông sinh nᾰm 1808 + 14 = 1822, nόi ông đỗ Cử nhân nᾰm 1822 là không đύng vὶ ông đỗ khoa Trύc Khê, tr. 336. chе́p ông thi Hach đō Đầu Xứ ở Bắc Ninh, mới hợp Lᾶng Nhân, sđd tr. 303 –Lê Quу́ Đôn, Vân Đài Loᾳi Ngữ, tr. Khάp phάch Quyển vᾰn cὐa học trὸ phἀi rọc phάch tức là xе́ trang đầu cung khai tên tuổi, quê quάn cất đi trước khi giao cho quan trường chấm để trάnh chuyện gian lận, chấm xong , xếp thứ tự rồi mới đem cάi phάch tức tờ cung khai tên tuổi ra rάp vào quyển thi, gọi là khάp phάch, để biết tên tάc giἀ quyển Theo Thực Lục, ông làm S khἀo trường Thừa Thiên chứ không phἀi Phύc khἀo. Theo lệ, quan trường chấm bằng mực xanh, hồng hay son ta, son Tầu nhg cấm khg được dῦng mực đen như học trὸ nên ông phἀi h son lên đѐn cho thành muội đѐn mầu đen để sửa hộ bài cho học Trύc Khê, tr. 353- Lᾶng Nhân, tr. Thực Lục, XXVIII, tr. 85. Thực Lục về Dực Tôn Anh Hoàng Đе́,quyển XI, đệ tứ kỷ 1854-5813- Sở Cuồng, Cao Bά Quάt, Tư liệu, tr. Lê Kim Ngân, Vᾰn Học Việt Nam thế kỷ XIX, tr. Th vᾰn Cao Bά Quάt, tr. Sở Bἀo, “Râu nọ cầm kia”, Trung Bắc Chὐ Nhật, số 13, Sở Cuồng, Cao Bά Quάt, Tư liệu, tr. Nghiêu đόng đô ở Bὶnh Dưng, vua Thuấn đόng đô ở Bồ Vō đάnh vua Trụ ở Mục Dᾶ, vua Thang diệt vua Trụ ở Minh Điều.Kiệt, Trụ là hai ông vua tàn άc, hᾳi dân18- Lê Kim Ngân, tr. THAM KHẢOCao Bά Quάt Toàn Tập, tập I. TP Hồ Chί Minh Vᾰn Học & Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Bά Quάt. Tư liệu – Bài viết từ trước tới nay. TP Hồ Chί Minh Vᾰn Học & Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Hồng, Từ Điển Thành ngữ, Điển tίch, Houston, Texas Zieleks tάi bἀn, Nam Thực Lục Chίnh Biên. Hà Nội Sử Học, Khoa Học, KHXH, Thị Hἀo, Từ Điển Vᾰn Học, I I, Hà Nội KHXH, 1984 Nguyễn Thuyên.Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua cάc đời, Hà Nội KHXH, 1965 ; Paris Đông Nam Á tάi Trinh Nhất, “Đức Minh Mệnh quở trάch Khâm Thiên Giάm”, Trung Bắc Chὐ Nhật, số 187, Trung Cὸn dịch , Luận Ngữ. Saigon Trί Đức Tὺng Thư, 1950 ?.Khâm Định Việt Sử Thông Giάm Cưng Mục. Hà Nội Vᾰn Sử Địa, Nhân, Giai Thoᾳi Làng Nho Toàn tập. Saigon Nam Chi Tὺng Thư, 1966 ; tάi bἀn ở Kim Ngân, Vᾰn học Việt Nam thế kỷ XIX, Phần Cổ Quу́ Đôn, Vân Đài Loᾳi Ng. Saigon Phὐ Quốc Vụ Khanh đặc trάch Vᾰn Hόa, giἀ Tᾳ Quang Huyền Anh, Việt Nam danh nhân từ điển. Houston, Texas Zieleks, Lộc, Từ Điển Vᾰn Học, I, Hà Nội KHXH, Bἀo, “Râu nọ cầm kia”, Trung Bắc Chὐ Nhật số 13, 26/5/ Ánh, Nếp cῦ, Con người Việt Nam. Xuân Thu tάi bἀn ở vᾰn Cao Bά Quάt. Hà Nội Vᾰn Học, vᾰn giάp chὐ biên, Lược truyện cάc tάc gia Việt Nam, I. Hà Nội Sử Học, Hữu Quỳnh, Phan Đᾳi Doᾶn, Danh nhân lịch sử Việt Nam. Hà Nội Giάo Dục, Tập TrύcKhê Ngô vᾰn Triện . Vᾰn Hόa Thông Tin, 2003.
Cao Bá Quát nhân tài kiệt xuất trời Nam, một con người nổi tiếng văn hay chữ tốt được dân gian tôn xưng là “Thánh Quát”. Quá tài giỏi nhưng vì khí khái kiêu căng, ngạo nghễ nên cuộc đời ông gặp đầy gian truân… Cao Bá Quát 1809 – 1854 tự là Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Thiên, là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là văn tài xuất chúng của nước ta vào thế kỷ XIX. Ngay từ thuở nhỏ, Bá Quát đã nổi tiếng học giỏi nên được mọi người coi như thần đồng. Tự buộc tóc lên trần nhà, cùm chân vào án thư để luyện chữ Là người thông minh từ nhỏ, năm 12 tuổi, Cao Bá Quát đã theo các bậc đàn anh lều chõng đi thi. Khi còn đi học ở Bắc Ninh, Cao Bá Quát nổi tiếng về tài văn thơ đối đáp thông minh và tài họa, nhưng lại viết chữ rất xấu. Xấu hổ với chữ viết như gà bới, đêm đến, ông thường thức khuya miệt mài tập viết chữ. Buồn ngủ quá, ông tự buộc tóc mình lên mái nhà để mỗi lần ngủ gật bị giật tóc đau, phải tỉnh lại. Ông còn buộc chân vào án thư để không thể “chạy đi chơi” được. Nhờ sự quyết tâm, kiên nhẫn, một thời gian sau, từ viết chữ xấu, Cao Bá Quát nổi tiếng khắp vùng về biệt tài viết chữ đẹp. Tương truyền, chữ viết của ông như “rồng bay phượng múa”, bút tích còn lại hiện nay được lưu lại trong bài đề tựa cuối cùng của “Mai Am thi tập” của công chúa Lại Đức, con gái vua Minh Mạng. Không những viết chữ đẹp, Cao Bá Quát còn nổi tiếng về tài văn thơ. Ông có thể “xuất khẩu thành thơ”, làm vế đối mọi lúc mọi nơi, ý tứ rất chuẩn mực, sắc sảo. Tài năng văn chương của ông khiến ngay cả ông vua hay chữ Tự Đức cũng phải thán phục. Vua trực tiếp ca ngợi ông và người bạn vong niên của ông là Nguyễn Văn Siêu rằng “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”, nghĩa là Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, đời tiền Hán không có ai bằng. Tuy vậy, Cao Bá Quát là người không mấy may mắn trên con đường công danh khoa cử. Năm Minh Mệnh thứ 12 1831, ông thi Hương ở trường Hà Nội, đậu Á nguyên Cử nhân, tức là đỗ thứ nhì trong kỳ thi đó. Nhưng khi bài thi bị duyệt lại vì có lỗi, ông bị đánh tụt xuống cuối bảng. Vào kinh để thi Hội nhiều lần, ông đều bị đánh trượt. Hội thi hương ở trường Hà Nội. Ảnh Wikipedia Chuyện cá nuốt cá, người trói người Chuyện kể rằng khi còn bé, Cao Bá Quát ra tắm ở Hồ Tây. Đúng vào lúc vua Minh Mệnh tuần du ở ngoài bắc, nhà vua cũng đến Hồ Tây xem phong cảnh. Đạo ngự đi qua, tàn lọng rợp trời, gươm đao sáng quắc, ai cũng phải tránh xa, riêng cậu Quát cứ tự do vùng vẫy. Lính đến bắt lôi lên bờ, cậu cứ trần truồng đến trước mặt vua, tự khai là học trò, vì trời nực ra hồ tắm mát. Vua nhìn xuống hồ thấy có con cá lớn đang đuổi đàn cá con, liền đọc một câu đối, bảo nếu đúng Quát là học trò thì phải đối được, sẽ tha không đánh đòn; vua đọc “Nước trong leo lẻo, cá đớp cá”. Bá Quát bèn ứng khẩu đối ngay “Trời nắng chang chang, người trói người” Vua và đoàn tùy tùng nghe xong đều khen hay và tha cho Bá Quát. Một góc Hồ Tây cạnh chùa Trấn Quốc ngày xưa. Ảnh Chơi khăm “ngài” lý trưởng Ở làng Cao Bá Quát có viên lý trưởng có tiếng là hay nhũng lạm. Dân làng chê trách nhưng không ai dám chỉ trích công khai. Cao Bá Quát tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết chung mối bất bình với dân chúng. Nhân có hội làng, dân làng cho đắp đôi con voi thờ dựng trước cửa đình, mà tiền đắp voi chủ yếu là do vị lý trưởng kia bỏ ra lấy tiếng là làm công đức nhưng thực chất là mua danh. Bá Quát liền rủ chúng bạn ra xem rồi lựa lúc vắng vẻ lấy bút viết luôn vào lưng voi bài thơ như sau “Khen ai rõ khéo đắp đôi voi Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi Chỉ có cái kia sao chẳng đắp Hay là thầy Lý bớt đi rồi?” Ước đời như Nghiêu, Thuấn Một lần Cao Bá Quát đến nghe bình văn ở một trường Đốc. Nghe đọc những câu văn tầm thường, ông cứ lắc đầu và còn bịt mũi tỏ ra khó chịu. Lính bắt vào nộp quan đốc học. Quát xưng là học trò, hỏi học với ai, ông trả lời – Tôi học với ông Trình ông Chu. Trình, Chu là hai vị học giả vào hàng tôn sư trong đạo Nho. Trả lời như vậy là tỏ ra mình học với các bậc thánh hiền, học từ gốc chứ không thèm học ngọn! Quan đốc giận lắm, ra câu đối bắt Quát phải đối ngay – “Nhĩ tiểu sinh hà xứ đáo lai, cảm thuyết Trình Chu sự nghiệp”? Tạm dịch là Chú bé này ở đâu đến đây, dám nói đến sự nghiệp ông Trình, ông Chu to lớn? Thời kỳ Nghiêu Thuấn là thười kỳ thịnh vượng coi trọng đạo đức, tôn kính trời đất là thời kỳ đặt định văn hóa cho con người. Ảnh Cậu Quát bèn lập tức đối lại – “Ngã quân tử kiến cơ nhi tác, dục vi Nghiêu Thuấn quân dân”. Tạm dịch Người quân tử gặp thời làm việc, muốn quân dân đều được như đời Thuấn, đời Nghiêu. Quan đốc phục tài, nhất là cảm cái chí hướng lớn lao của người trẻ tuổi này. Ông đã không giận mà còn thưởng cho Cao Bá Quát. Kết bạn vong niên với Nguyễn Siêu Thời bấy giờ có ông Nguyễn Văn Siêu nổi tiếng là hay chữ. Được biết ông Siêu dạy học ở Hà Nội, Cao Bá Quát liền từ Bắc Ninh sang Hà Nội, tìm đến trường của ông Siêu dạy để nghe giảng bài. Bá Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất, chứng tỏ là một lớp học nghèo. Thầy đồ Siêu nhìn thấy một anh chàng trẻ tuổi chừng mười lăm, mười sáu, thơ thẩn đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, thầy đồ hỏi – Anh đi đâu mà đứng ở đây? Bá Quát trả lời – Tôi là học trò đi qua trường, thấy thầy giảng văn muốn xin thầy cho vào nhập học. Ông Siêu muốn thử tài học của Bá Quát, bèn nói – Nếu thật anh là học trò, thì anh đối thử vế đối này “Tiên sinh tọa tịch thượng, cót chi két, két chi cót, cót cót két két”. Tạm dịch là Ông thầy ngồi trên chõng, kêu cót két, két cót, cót cót két két. Bá Quát liền đối lại “Tiểu tử nhập đình trung, thẩn chi thơ, thơ chi thẩn, thẩn thẩn thơ thơ” Tạm dịch trò nhỏ vào sân trường, đi thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ. Nguyễn Văn Siêu nghe thấy vế đối tài tình rất phục, mời vào trong ngồi, hỏi tên tuổi và lai lịch mới biết là Cao Bá Quát ở Bắc Ninh, là người mà ông đã nghe tiếng đồn là thần đồng. Về sau hai người đi lại thăm nhau luôn và trở thành đôi bạn vong niên thân thiết. Bá Quát tới nơi, đứng cửa sổ dòm vào, thấy một ông đồ khoảng 25, 26 tuổi, ngồi trên một cái chõng cũ siêu vẹo, học trò thì ngồi lê la dưới đất. Ảnh THTG Đèn nhà ai nhà nấy rạng Chuyện kể rằng Cao Bá Quát có dịp vào Quảng Nam, đến thăm nhà một cụ đồ sau này là thân sinh ông Nguyễn Hiển Dĩnh. Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ văn đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối chữ Nôm. Ông Quát viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu rất tài tình như sau “Trước mẹ dạy con gió chiều nào che chiều ấy, con dạ. Giờ con thờ mẹ đèn nhà ai rạng nhà nấy, mẹ ơi!” Người đời đều khen tụng là cặp câu đối rất hay, dùng toàn thành ngữ dân gian mà lại rất tương hợp với hoàn cảnh của chủ nhân cũng như ý nghĩa và công dụng của cái đôi đèn thờ. Bản tấu trình hiểm hóc Nhờ có tài văn chương, tuy chức phận thấp, Cao Bá Quát vẫn thường được nhiều người coi trọng, kể cả nhà vua. Chuyện kể rằng một hôm có hai vị quan trong triều là Phan Văn Nhã và Võ Văn Khải đánh nhau vì chuyện văn chương. Ông Khải xem bài văn của ông Nhã, chê kém và nói “Văn như thế chó nó cũng làm được”. Thế là hai bên sinh sự. Cao Bá Quát vì có chứng kiến việc này nên vua Tự Đức bắt viết tờ tấu trình cho vua rõ đầu đuôi. Quát cứ “sự thực tường khai” như sau “Quát quá Nhã gia Nhã hô Quát! Quát! Quát lai ẩm Thủ bất tri Vĩ bất tri Bất tri như hà Chỉ kiến lưỡng tương đấu khẩu Bỉ viết cẩu Thử diệc viết cẩu Thượng hạ giai cẩu Lưỡng tương đấu ẩu Thần kiến thế nguy Thần cụ thần tẩu”. Mấy câu thơ trong bản tấu trình trên tạm dịch là “Quát qua nhà Nhã Nhã gọi Quát! Quát! Quát đến uống Đầu không biết Cuối không biết Chẳng biết vì sao Chỉ thấy hai bên cãi cọ… Bên này rằng chó Bên kia cũng chó Trên dưới đều chó Hai bên đấu võ Thần thấy thế nguy Thần sợ thần chạy!” Vua Tự Đức đọc tới câu “Thượng hạ giai cẩu”, biết là Cao Bá Quát lợi dụng lời khai để chơi khăm cả nhà vua, nhưng vì lời khai hay và đúng sự thực quá nên cũng đành “ngậm bồ hòn làm ngọt”. Quát viết tấu chương kể lại sự việc có pha chút chơi khăm nhà vua. Ảnh Spiderum Cả gan mà vuốt râu hùm Thời Bá Quát còn làm quan đương triều, Vua Tự Đức thường cứ nghĩ ra những trò văn chương độc đáo để khoe tài với các quan. Một lần, ông nói với họ – Đêm qua, trẫm nằm mơ thấy hai câu thơ thật đặc biệt “Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai” Ý tứ là Trong vườn chim oanh hót giọng “khề khà”; Ngoài đồng hoa đào nở “lấm tấm”. – Các khanh thấy thế nào? Các quan đều nức nở khen thơ hay và lạ, có chữ Hán kèm tiếng Nôm, rõ nghĩa mà có hình ảnh tân kỳ, chắc là tiên thánh nào ban cho, hoặc nhà vua nghĩ được câu thần cú. Chỉ có Cao Bá Quát quỳ tâu – Tâu bệ hạ, câu thơ ấy là thơ cũ đấy ạ! Nguyên là hai câu 3, 4 ở một bài thơ thần đã được nghe. Vua ngạc nhiên lắm, thơ mình nghĩ ra kia mà! viên quan họ Cao này sao dám nói là thơ cũ? Nhưng vua cũng bình tĩnh bảo – Nếu khanh đã nghe cả bài thì đọc thử xem Cao Bá Quát bèn đọc tức thì “Bảo mã tây phong huếch hoác lai Huênh hoang nhân tự thác đề hồi Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai Xuân nhật bất văn sương lộp bộp Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài Khù khờ thi tứ đa nhân thức Khệnh khạng tương lai vấn tú tài” Tạm dịch là “Gió tây ngựa huếch hoác về Huênh hoang người cũng tự đi theo vào Khề khà oanh hót vườn nao Đồng quê lấm tấm muôn đào nở hoa Xuân không lộp bộp sương sa Ngày thu chỉ thấy trời mưa bài nhài Khù khờ thơ đã cũ rồi Ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ” Đức vua bị một “đòn” đau quá. Ông biết rõ Cao Bá Quát bịa ra, mà lại ngang nhiên trêu chọc ông “Khù khờ thơ đã cũ rồi, ông còn khệnh khạng hỏi người hay thơ”. Nhưng ngoài mặt nhà Vua vẫn phải khen hay – vì đúng là thơ của Bá Quát hay thật, và sai lính mang trà tặng thưởng Cao Bá Quát. Vua bị chơi khăm nhưng vẫn nể phục Quát. Ảnh minh họa Pinterest Tiếc cho một nhân tài Cao Bá Quát là người rất bản lĩnh. Ông dù sống một đời thanh bần nhưng luôn coi thường những kẻ khom lưng, luồn cúi để được giàu sang, và là người thường tự tin rằng có thể thay đổi được vận mệnh của đời mình. Khi ra làm quan, ông muốn đem tài năng giúp đời, nhưng rồi sớm nhận ra có những vấn đề không thể thay đổi được. Những lúc cảm thấy như bất lực trước thời cuộc ấy, ông muốn hưởng an nhàn. Nhưng khi chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân ông lại không thể. Cuối cùng, con đường ông lựa chọn là tham gia khởi nghĩa nông dân. Triều Nguyễn càng về cuối càng suy tàn. Năm 1850, Cao Bá Quát được triều đình cử đi giữ chức Giáo Thụ ở Quốc Oai Sơn Tây. Năm 1853 các tỉnh Sơn Tây, Kinh Bắc bị nạn châu chấu cắn lúa, dân đói khổ, nổi loạn. Ông từ chức, lấy cớ nuôi mẹ già rồi liên lạc với các nhóm nghĩa quân, lại bầu Lê Duy Cự tức Duy Đồng, tự xưng là cháu bốn đời của Lê Hiển Tông lên làm Minh chủ, còn mình thì làm Quốc sư. Nghĩa quân phát động khởi nghĩa ở Mỹ Lương, tức Chương Mỹ và Lương Sơn, Bắc Ninh, tiến đánh vùng Hà Nội, Sài Sơn Sơn Tây nhưng mấy tháng sau thua trận phải rút về Mỹ Lương. Tháng 11 năm 1854 ông mất. Về cái chết của Cao Bá Quát có nhiều thuyết khác nhau. Một số người tin rằng ông bị bắt, giải về Hà Nội rồi đưa vào giam ở Huế trước khi đem ra chém đầu, Trong thời gian bị giam trong ngục ông có làm đôi câu đối nổi tiếng “Một chiếc cùm lim chân có đế, Ba vòng dây xích bước còn vương”. Dựa vào văn phong, người ta có thể tin đôi câu đối trên là do ông sáng tác. Song theo cuốn chính sử của nhà Nguyễn – “Đại Nam Thực lục chính biên” thì cho hay “Năm 1854 ông bị suất đội Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Vua Tự Đức hạ lệnh bêu đầu ông khắp các tỉnh miền Bắc rồi bổ ra ném xuống sông. Sau Quang được thăng lên Cai đội”. Như vậy là ông chết trận chứ không hề bị giam cầm. Cũng có thuyết nói ông bị bắt và tự sát trên đường giải về Kinh. Có lẽ người ta đã nhầm ông với người anh song sinh của ông là Cao Bá Đạt khi ấy đang làm Tri huyện Nông Cống Thanh Hóa, vì em làm phản mà bị vạ lây, bị bắt giải về kinh đô, giữa đường Bá Đạt cắn ngón tay viết bản trần tình rồi tự tử. Sau khi Cao Bá Quát qua đời, các tác phẩm của ông bị triều đình tiêu hủy khá nhiều. Hiện nay còn giữ lại được khoảng bài thơ và 21 bài văn xuôi. Đường Phong
câu chuyện về cao bá quát